Khách đến nhà được người Nùng Phúc Sen (Quảng Uyên) đón tiếp nồng nhiệt. |
Với người Tày, Nùng văn hóa ứng xử của họ mang đặc tính của cư dân miền núi, thung lũng và nguồn nước (sông, suối, khe, lạch, mỏ nước) phản ánh đặc trưng văn hoá tộc người trên mọi phương diện của cuộc sống thường nhật.
VĂN HÓA ỨNG XỬ VỚI THIÊN NHIÊN
Trong tiến trình hình thành và phát triển, người Tày, Nùng luôn ứng xử trân trọng và thân thiện với môi trường thiên nhiên như việc bảo vệ rừng cây gỗ quý, bảo vệ rừng cây chống xói mòn đồi nương, bảo vệ rừng cây nơi đầu nguồn; việc xây đắp hệ thống mương phai chứa nước, dẫn nước bằng hệ thống lái, lìn, guồng cọn để phục vụ cho trồng cấy cây lương thực và chăn nuôi gia súc cũng như phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày, việc cấm săn bắt muông thú, cá tôm bừa bãi, quy định những nơi chăn thả gia súc lớn rõ ràng, với từng khoảng rừng, từng khúc sông, suối khe lạch của từng bản, làng cụ thể bằng những quy ước, hương ước, lệ làng chặt chẽ.
Trong tiến trình hình thành và phát triển, người Tày, Nùng luôn ứng xử trân trọng và thân thiện với môi trường thiên nhiên như việc bảo vệ rừng cây gỗ quý, bảo vệ rừng cây chống xói mòn đồi nương, bảo vệ rừng cây nơi đầu nguồn; việc xây đắp hệ thống mương phai chứa nước, dẫn nước bằng hệ thống lái, lìn, guồng cọn để phục vụ cho trồng cấy cây lương thực và chăn nuôi gia súc cũng như phục vụ cho sinh hoạt hằng ngày, việc cấm săn bắt muông thú, cá tôm bừa bãi, quy định những nơi chăn thả gia súc lớn rõ ràng, với từng khoảng rừng, từng khúc sông, suối khe lạch của từng bản, làng cụ thể bằng những quy ước, hương ước, lệ làng chặt chẽ.
VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG CỘNG ĐỒNG LÀNG BẢN VÀ XÃ HỘI
Người Tày, Nùng chủ yếu thường sống quần cư tập trung thành những làng bản, được phân bố tùy theo địa hình đồi núi và sông suối. Làng bản của người Tày, Nùng phải được sắp xếp theo thế đứng của núi đồi và dòng chảy của sông, suối. Người Tày, Nùng thường nói: “Pù pài khau phja dú bưởng lăng. Thôm pia nà nặm dú bưởng nả. Rườn lảng tua cần dú tỉnh chang” nghĩa là (Đồi gò rừng núi ở phía sau. Ao cá ruộng nước ở phía trước. Nhà cửa con người ở chính giữa). Tình làng, nghĩa xóm của người Tày, Nùng luôn được bện chặt bằng tình người. Mỗi khi trong làng, bản có việc hiếu, việc hỷ thì cả làng, cả bản đều dừng tất cả mọi công việc khác để tập trung, giúp đỡ nhau giải quyết xong công việc mới ai về nhà nấy. Các kỳ lễ, tết trong năm họ đều tổ chức ăn uống, chúc tụng từ nhà này sang nhà khác. Người Tày, Nùng có tính cố kết cộng đồng vững chắc, câu cửa miệng của họ là: “Pò bản - Rườn làu. Bản bấu mắn - Rườn tó slán”, ý là (Cả bản - Nhà mình. Bản mà không vững chắc - Thì nhà mình cũng tan).
Người Tày, Nùng chủ yếu thường sống quần cư tập trung thành những làng bản, được phân bố tùy theo địa hình đồi núi và sông suối. Làng bản của người Tày, Nùng phải được sắp xếp theo thế đứng của núi đồi và dòng chảy của sông, suối. Người Tày, Nùng thường nói: “Pù pài khau phja dú bưởng lăng. Thôm pia nà nặm dú bưởng nả. Rườn lảng tua cần dú tỉnh chang” nghĩa là (Đồi gò rừng núi ở phía sau. Ao cá ruộng nước ở phía trước. Nhà cửa con người ở chính giữa). Tình làng, nghĩa xóm của người Tày, Nùng luôn được bện chặt bằng tình người. Mỗi khi trong làng, bản có việc hiếu, việc hỷ thì cả làng, cả bản đều dừng tất cả mọi công việc khác để tập trung, giúp đỡ nhau giải quyết xong công việc mới ai về nhà nấy. Các kỳ lễ, tết trong năm họ đều tổ chức ăn uống, chúc tụng từ nhà này sang nhà khác. Người Tày, Nùng có tính cố kết cộng đồng vững chắc, câu cửa miệng của họ là: “Pò bản - Rườn làu. Bản bấu mắn - Rườn tó slán”, ý là (Cả bản - Nhà mình. Bản mà không vững chắc - Thì nhà mình cũng tan).
VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG GIA TỘC, DÒNG HỌ
Dòng họ, gia tộc của người Tày, Nùng là một hệ thống thống nhất từ cao đến thấp, thứ bậc rõ ràng, kính trên nhường dưới, nội trong dòng họ gia tộc luôn đoàn kết nhất trí một lòng từ họ xa đến họ gần, không có sự phân biệt xa gần, không phân biệt giàu hay nghèo. Trong dòng họ, gia tộc có việc vui cùng hưởng, có việc buồn cùng chia, mọi việc khó khăn, hoạn nạn cùng nhau giúp đỡ. Người Tày, Nùng có phong tục “Tò pang” có nghĩa là cùng nhau đóng góp, giúp đỡ nhau, cùng nhau san sẻ khó khăn thiếu thốn trong những công to việc lớn, chủ yếu là họ góp, gửi gạo rượu, gà vịt, lợn trong hai việc lớn: Việc hỷ như đám cưới, mừng con đầy tháng tuổi, mừng nhà mới, chúc thọ lên lão. Việc hiếu thì cả dòng họ, gia tộc góp gửi gạo rượu, gà, vịt, lợn. Ngoài ra, còn có việc góp gửi vải trắng và tro bếp trong việc tang lễ (dùng để lót vào áo quan khi khâm liệm thi hài). Phong tục này rất nhân văn, thể hiện tính cố kết cộng đồng bền vững trong dòng họ, gia tộc, từ nhiều dòng họ, gia tộc bền vững đã góp phần tạo nên thế bền vững trong bản làng, cộng đồng khu dân cư.
Dòng họ, gia tộc của người Tày, Nùng là một hệ thống thống nhất từ cao đến thấp, thứ bậc rõ ràng, kính trên nhường dưới, nội trong dòng họ gia tộc luôn đoàn kết nhất trí một lòng từ họ xa đến họ gần, không có sự phân biệt xa gần, không phân biệt giàu hay nghèo. Trong dòng họ, gia tộc có việc vui cùng hưởng, có việc buồn cùng chia, mọi việc khó khăn, hoạn nạn cùng nhau giúp đỡ. Người Tày, Nùng có phong tục “Tò pang” có nghĩa là cùng nhau đóng góp, giúp đỡ nhau, cùng nhau san sẻ khó khăn thiếu thốn trong những công to việc lớn, chủ yếu là họ góp, gửi gạo rượu, gà vịt, lợn trong hai việc lớn: Việc hỷ như đám cưới, mừng con đầy tháng tuổi, mừng nhà mới, chúc thọ lên lão. Việc hiếu thì cả dòng họ, gia tộc góp gửi gạo rượu, gà, vịt, lợn. Ngoài ra, còn có việc góp gửi vải trắng và tro bếp trong việc tang lễ (dùng để lót vào áo quan khi khâm liệm thi hài). Phong tục này rất nhân văn, thể hiện tính cố kết cộng đồng bền vững trong dòng họ, gia tộc, từ nhiều dòng họ, gia tộc bền vững đã góp phần tạo nên thế bền vững trong bản làng, cộng đồng khu dân cư.
VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG MỖI GIA ĐÌNH
Mỗi gia đình là một thành viên của dòng họ, gia tộc và của bản làng. Mỗi gia đình có nhiều thế hệ cùng chung sống, ít nhất là hai thế hệ, nhiều nhất là năm thế hệ đồng đường nhưng nếp sống của người Tày, Nùng luôn kính già, yêu trẻ, phân định vai vế rõ ràng. Nhất là khía cạnh ứng xử gia đình trong ăn uống. Đặc biệt, gia đình người Tày, Nùng, trước bữa cơm, luôn có ý thức chờ đợi nhau, ít khi ăn trước nếu còn thiếu người.
Đối với người Tày, Nùng, ứng xử trong ăn uống của mỗi gia đình còn là ý thức về sự nhường nhịn. Họ luôn dành sự ưu tiên cho người cao tuổi, trẻ nhỏ, người ốm đau, phụ nữ đang ở cữ hay có mang. Những đối tượng trên được gia đình dành riêng khẩu phần tốt hơn như nấu cơm riêng, thức ăn riêng. Còn đối với người cao tuổi thì được ăn thức ăn mềm, nhiều lượng chất bổ.
Ngoài bữa cơm gia đình, thường ngày khi cả nhà ngồi hóng mát bên cửa sổ hay ngồi sưởi bên bếp lửa, người đàn ông bao giờ cũng ngồi phía bên trên, con dâu, cháu dâu... luôn ngồi phía dưới và sau bếp.
Mỗi gia đình là một thành viên của dòng họ, gia tộc và của bản làng. Mỗi gia đình có nhiều thế hệ cùng chung sống, ít nhất là hai thế hệ, nhiều nhất là năm thế hệ đồng đường nhưng nếp sống của người Tày, Nùng luôn kính già, yêu trẻ, phân định vai vế rõ ràng. Nhất là khía cạnh ứng xử gia đình trong ăn uống. Đặc biệt, gia đình người Tày, Nùng, trước bữa cơm, luôn có ý thức chờ đợi nhau, ít khi ăn trước nếu còn thiếu người.
Đối với người Tày, Nùng, ứng xử trong ăn uống của mỗi gia đình còn là ý thức về sự nhường nhịn. Họ luôn dành sự ưu tiên cho người cao tuổi, trẻ nhỏ, người ốm đau, phụ nữ đang ở cữ hay có mang. Những đối tượng trên được gia đình dành riêng khẩu phần tốt hơn như nấu cơm riêng, thức ăn riêng. Còn đối với người cao tuổi thì được ăn thức ăn mềm, nhiều lượng chất bổ.
Ngoài bữa cơm gia đình, thường ngày khi cả nhà ngồi hóng mát bên cửa sổ hay ngồi sưởi bên bếp lửa, người đàn ông bao giờ cũng ngồi phía bên trên, con dâu, cháu dâu... luôn ngồi phía dưới và sau bếp.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét